Cương vực Ngũ_Đại_Thập_Quốc

Cương vực thời Ngũ Đại Thập Quốc về đại thể có thể phân thành Ngũ Đại và Thập Quốc.

Các triều Ngũ Đại đại thể thống trị khu vực Hoa Bắc và Quan Trung, cũng từng cai quản Yên Vân thập lục châu, Hà Đông (nay là tỉnh Sơn Tây), đất Thục, khu vực Hoài Bắc. Thập Quốc cùng các phiên trấn khác phân bố xung quanh Ngũ Đại như tại Hoa Nam, Hồ Quảng, đất Thục, Cam Túc, Hà Đông, Hà Bắc; trong đó, khu vực Giang Nam và Hồ Quảng chia thành sáu nước, điều này thể hiện vùng phía nam Trường Giang đã được "khai hóa" hơn khá nhiều so với thời Tam Quốc, vì vậy có thể tự lập quốc trên một địa bàn nhỏ. Sau khi triều Tống thống nhất Trung Quốc, cương vực các nước thời Ngũ Đại Thập Quốc vẫn được sử dụng trong phân chia hành chính ở cấp lộ, nay trở thành ranh giới tỉnh. Hơn nữa, cương vực bị phân nhỏ song các nước vẫn không thể tự cấp tự túc, chỉ có thể sản xuất sản phẩm của bản thân, đồng thời vượt qua biên giới tiến hành giao lưu kinh tế, tạo tiền đề để thương nghiệp triều Tống trở nên phát đạt.[tham 37]

Hậu kỳ triều Đường và thời Ngũ Đại, trung tâm chính trị vì nhân tố chiến loạn và kinh tế, di chuyển từ Trường An, Lạc Dương, qua Khai Phong. Đương thời, khu vực Quan Trung do bị chiến loạn tàn phá nên hoang phế, phiên trấn tương đối mạnh chỉ có nước Kỳ của Lý Mậu Trinh và Định Nan quân, khu vực Hà Lũng tiếp tục suy thoái, ngoại tộc như Hồi Cốt hay Thổ Phồn tranh giành hành lang Hà Tây; song khu vực Hoa Trung và Hoa Nam có kinh tế cường thịnh, nhiều phiên trấn cát cứ, thuộc phạm vi thế lực của Thập Quốc.[tham 1] Khai Phong nằm ở vị trí trung tâm trong tuyến Đại Vận Hà thời Tùy Đường, phụ trách việc vận chuyển hàng hóa qua lại Hà Bắc, Quan Trung, Giang Nam và Hồ Quảng, là trạm trung chuyển lương thực và hóa vật của Thiên hạ. Đương thời, do Quan Trung hoang phế, Khai Phong là nơi tích trữ tài phú của Thiên hạ nên có địa vị hàng đầu đối với Ngũ Đại, khiến cho triều Tống và các Triều đại sau này đều chọn các nơi ven Đại Vận Hà như Bắc Kinh, Khai Phong, Nam Kinh và Lâm An làm thủ đô. Ngoài ra, chiến tranh thời Ngũ Đại phần nhiều là đối đầu giữa Khai Phong với Hà Đông tiết độ sứ ở Thái Nguyên, ví dụ như Tấn của Lý Khắc Dụng và Hậu Lương, Hậu Tấn và Hậu Đường, Hậu Hán và triều Liêu đang chiếm cứ Trung Nguyên, Bắc Hán và Hậu Chu. Điều này là do Thái Nguyên nằm ở vùng núi Thái Hành Sơn với vị trí dễ thủ khó công, nếu sau lưng được ngoại tộc ở phía bắc tiếp viện, thì có đủ khả năng tranh vị với Khai Phong ở bình nguyên.[tham 37]

Phạm vi Ngũ Đại Thập Quốc và triều Đường lúc hậu kỳ có sự tương đồng, bị thu lại rõ ràng, nhỏ hơn một chút so với phạm vi của Trung Quốc bản thổ, ngoại tộc chiếm giữ các vùng lãnh thổ lớn xung quanh Trung Quốc bản thổ, cuối cùng kiến lập triều Liêu và Tây Hạ. Khu vực Hà Tây bị Quy Nghĩa quân, Cam Châu Hồi Cốt, cùng các bộ tộc Thổ Phồn chiếm lĩnh. Năm 938, Yên Vân thập lục châu bị Hậu Tấn Cao Tổ Thạch Kính Đường cắt nhượng cho Khiết Đan Quốc (sau là triều Liêu), khiến cho tuyến quốc phòng phía bắc từ thời Hán-Đường toàn bộ phải rút về phía sau, phía bắc Hoàng Hà hầu như không còn rào cản. Thêm vào việc trung tâm chính trị của Trung Quốc di chuyển về phía đông, khiến cho Ngũ Đại và triều Tống phải chịu áp lực từ triều Liêu.[tham 1] Họ Khúc kiểm soát Tĩnh Hải quân, cát cứ ở khu vực Tĩnh Hải quân, đồng thời sau khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng, khu vực Việt Nam chính thức thoát ly khỏi lịch sử Trung Quốc. Ở Hạ châu thuộc Thiểm Bắc, Định Nan quân cát cứ, đến thời Tống thì độc lập, trở thành Tây Hạ.[tham 37]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Ngũ_Đại_Thập_Quốc http://www.britannica.com/EBchecked/topic/208994 http://www.britannica.com/EBchecked/topic/587074 http://military.china.com/zh_cn/dljl/songchao/01/1... http://edu.cnxianzai.com/gaozhongsheng/xuefazhidao... http://www.guoxue.com/shibu/24shi/Newwudai/xwdml.h... http://www.guoxue.com/shibu/24shi/oldwudai/jwdml.h... http://id.loc.gov/authorities/subjects/sh85024062 http://d-nb.info/gnd/4717161-3 http://vr.theatre.ntu.edu.tw/fineart/chap18/chap18... http://db1x.sinica.edu.tw/caat/caat_rptcaatc.php?_...